Banner

Giữ lại truyền thống

Khi nhà gái đồng ý gả con cho nhà trai, lễ hỏi sẽ được tiến hành, nhưng một hoặc hai năm sau mới được làm đám cưới. Một tháng trước ngày cưới nhà trai  mang một "thau lớn" lễ vật gồm áo dài cưới, xà rông, khăn đội đầu, kim chỉ... tất cả những vật dụng cần thiết cho cô dâu trong đời sống riêng sau này.


Đám cưới dân tộc Chăm với những nghi thức đặc biệt. Người chăm An Giang có chung nguồn gốc với người chăm Ninh Thuận.

Đám cưới dân tộc Chăm với những nghi thức đặc biệt. Người chăm An Giang có chung nguồn gốc với người chăm Ninh Thuận.

Từ thuở theo chân cuả các vua quan triều Nguyễn mở mang bờ cõi phía Nam, họ đã an cư lạc nghiệp ở đây. Rồi trong quá trình giao thương với người Malaysia thì đạo Hồi theo con đường này mà du nhập vào các dân tộc Chăm ở Việt Nam. Họ sống và làm việc theo giáo điều trong kinh Coran, rõ nét nhất là trong các nghi thức cưới hỏi.

Người Chăm không có họ. Họ dùng tên của những vị thánh nam đặt cho con trai và tên những vị thánh nữ đặt cho con gái. Khi gia đình có con trai tới tuổi kết hôn (ít nhất là 20 tuổi) bà mẹ sẽ tìm cô gái vừa ý để cưới cho con.

Khi nhà gái đồng ý gả con cho nhà trai, lễ hỏi sẽ được tiến hành, nhưng một hoặc hai năm sau mới được làm đám cưới. Một tháng trước ngày cưới nhà trai  mang một "thau lớn" lễ vật gồm áo dài cưới, xà rông, khăn đội đầu, kim chỉ... tất cả những vật dụng cần thiết cho cô dâu trong đời sống riêng sau này.

Khắp các nẻo đường dẫn vào làng Chăm, khách đi đường chỉ toàn là đàn bà, trẻ em và nam giới, bặt nhiên không thể nào tìm thấy dáng các cô thôn nữ.

Đó là miêu tả chung nhất về những ngôi làng chăm thuộc các huyện Tân Châu và An Phú (tỉnh An Giang) những năm trước thập niên 70 của thế kỷ 20. Các cô gái Chăm khi bước vào độ tuổi 12 - 13 thì bắt buộc "cấm cung" trong nhà, không được phép tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

Khi những ngày cuối của mùa chay Ramadal theo Hồi lịch kết thúc, cũng là lúc trời đất giao mùa. Những làn gió cuối Thu hoà cùng những cơn mưa trong mùa nước nổi ở miền biên giới Tây Nam tạo cho ta cảm giác bâng khuâng.

Lúc này, khắp thôn làng đang chuẩn bị vào mùa lễ hội chỉ có niềm vui, tiếng cười cùng những lời chúc tụng. Mùa cưới ở làng Chăm!

Lễ cưới truyền thống 

 


Là chủ tịch hội phụ nữ xã Châu Phong, huyện Tân Châu, nên chị bạn của tôi thích nhìn thấy những người thân trong gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống của dân tộc.

Nhận được lời mời ăn cưới ở làng Chăn của chị, tôi rất vui, vì đây là lần đầu tiên tôi được tham dự một lễ đúng với truyền thống của người Chăm theo đạo Hồi.

Theo tục lệ, khách chỉ được mời tới dự vào ngày đưa rể sang nhà gái. Nhưng vì muốn tìm hiểu lễ cưới truyền thống của người Chăm như thế nào nên tôi xin phép đi dự đủ 03 ngày diễn ra hôn lễ. Và tôi chính là người Kinh duy nhất trong đám cưới ấy!

Mặc dù tiệc trà đêm qua và những bài hát trong đêm họp bạn kéo dài đến gần 01 giờ sáng, thế nhưng trời vừa tờ mờ sáng mọi người đã có mặt đông đủ. Đúng 06 giờ họ nhà trai quần áo chỉnh tề, chuẩn bị đưa chú rể trong bộ lễ phục truyền thống của người Chăm đến thánh đường làm lễ. 

Trong đoàn có khoảng 30 người, chỉ toàn nam giới, (phụ nữ Chăm không được phép vào thánh đường) và 03 bé trai tay bưng 03 cái ô, mỗi ô bên trong đựng: trầu - cau - vôi, gạo - muối và bánh - trái cây đi phía trước.

Trên đầu chú rể được che bởi một cái lọng màu sắc sặc sỡ. Mọi người trong làng đổ xô ra xem đám đưa rể đang đi trên đường rồi bàn tán xôn xao. Người Chăm theo mẫu hệ, họ chỉ có đưa rể chứ không có đưa đón dâu, và đám đưa rể không dùng xe máy hay ô tô, họ chỉ đi bộ!

Trên đường đi, dàn kèn trống nổi lên những điệu nhạc nghe thật vui tai, rồi mọi người cùng nhau ca hát rất vui vẻ. Đến thánh đường, chú rể ngồi đối diện với cha vợ, hai bên có hai người cao tuổi, đạo đức tốt làm chứng, đồng thời có vị thầy Cả đọc kinh dạy bảo chú rể bổn phận làm chồng theo luật Hồi giáo. Sau đó cha vợ bắt tay chú rể và nói: "Ta gả con gái ta tên Mahriem cho con Sarol với số tiền đồng là 01 lượng vàng và tiền chợ là 5 triệu đồng".

Rồi mọi người cùng cầu nguyện cho cô dâu - chú rể mạnh khoẻ và hạnh phúc. Buổi lễ kéo dài khoảng 15 phút.

Tục đưa rể

Từ thánh đường, đám đông đưa chú rể đến nhà cô dâu. Khi đến nơi, mọi người ở lại bên ngoài sân, một người của nhà gái ra đón chú rể ở cửa rồi đưa vào tận phòng cưới. Phòng cưới trang hoàng rực rỡ, cùng đi có 03 bé trai bưng 03 cái ô. 

Lúc này cô dâu trong trang phục cưới truyền thống, trang điểm thật đẹp ngồi trên chiếc giường cưới chờ chú rể. 

Khi vào phòng, chú rể bước đến ngồi cạnh cô dâu, 03 cái ô đặt trước mặt họ. Các lò hương trầm được đốt lên, các bà các cô trong họ nhà gái cùng với đôi tân hôn cầu nguyện và chúc lành cho hôn lễ.

Trên đầu cô dâu lúc này có giắt 03 chiếc trâm, chú rể sẽ rút chiếc trâm dài nhất ở giữa đặt vào tay cô dâu, hành động này nhằm khẳng định nàng bây giờ đã là vợ của chàng.

Sau đó chú rể thay bộ đồ do cô dâu tặng để ra ngoài tiếp khách bên nhà vợ, một lúc sau quay về nhà cha mẹ ruột. Cô dâu cũng ra ngoài theo cô hoặc dì của chồng đến vái chào các bà trong họ nhà chồng (những người phụ nữ này tới nhà gái trước khi đoàn đưa rể đến) và họ hàng nhà mình.

Sau khi đưa rể đến nhà gái xong, mọi người quay về. Bao giờ thực khách đến đông đủ, bà mẹ sẽ đi chào khách nữ, người cha sẽ đi tiếp khách nam. Để chia vui với gia đình, khách mời sẽ tặng lại một phong bì đựng tiền. Rồi mọi người lại cầu nguyện và tiệc mặn được dọn lên.

Trước khi ăn, có một người xách một ấm nước và một cái thau nhỏ đến trước mặt từng khách rót nước cho khách rửa tay. Thức ăn chỉ có một món duy nhất đó là cơm trắng ăn với cà ri bò và dưa chua (củ hành, củ kiệu, gừng, cải đỏ và cải trắng) và muối tiêu chanh. 

Thấy chị chủ ngôi nhà tôi đang ngồi tiếp khách chu đáo quá nên tôi nghĩ chị là họ hàng của nhà trai, nhưng chị cho biết: "Tôi chỉ là hàng xóm thôi. Người Chăm trong làng sống gắn bó với nhau, dù không là họ hàng nhưng khi trong tộc có hỷ sự, hiếu sự thì mọi người đều cùng nhau tiếp giúp".

Theo luật Hồi giáo, người Chăm không dùng rượu và bữa tiệc của họ kết thúc nhanh chóng, chứ không ồn ào và kéo dài như tiệc cưới của người Kinh. Có trực tiếp tham dự đám cưới truyền thống của người Chăm mới thấy rằng, dù khi quá vui hay lúc quá buồn, họ đều thờ phụng đấng Ala và tuân thủ nghiêm giới răn của đạo Hồi.

Theo Monngonhanoi